Tên di sản : Chùa Lục Nghĩa Trúc
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 423/QĐ-UBND
Giới thiệu
Ngày nay không còn một tài liệu nào ghi chép cụ thể về thời gian xây dựng chùa. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, chùa Lục Nghĩa Trúc có từ lâu đời, nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng (địa điểm hiện nay) nhìn về hướng Nam. Đây là ngôi chùa làng với quy mô cấu trúc không lớn lắm.
Quy mô cấu trúc:
Kiến trúc chùa trước đây được xây dựng gồm nhà Tiền đường 3 gian và Hậu cung 3 gian, cấu trúc hình chữ Đinh (J); phía Đông Nhà mẫu 3 gian, Nhà thờ tổ 3 gian. Phía trước là cổng Tam quan. Qua cổng Tam quan đến sân chùa. Qua sân về phía đông có giếng chùa (hiện tại giếng đang được sử dụng), giếng được kê bằng những hòn đá cuội xưa kia, giếng kè đá lên sát mặt đất. Trong những năm gần đây, địa phương lát lại sân giếng. Đến thời kỳ Bài phong, phần nào chùa bị sụp đổ, địa phương lấy nguyên vật liệu để làm trạm xá, trường học, một số tượng trong chùa bà con nhân dân trong vùng gửi về một số chùa lân cận. Đất chùa sử dụng làm đất canh tác.
Để đáp ứng đời sống tâm linh của nhân dân trong việc thờ cúng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Phú Lộc, Hội người cao tuổi, nhân dân, các nhà hảo tâm đã đóng góp công đức trùng tu, tôn tại lại ngôi chùa trên nền móng cũ theo thiết kế theo thức kiến trúc truyền thống được Ủy ban Nhân dân huyện Hậu Lộc phê duyệt tại Quyết định số 153/QĐ-UBND ngày 9/10/2012, trên cơ sở thẩm định của Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Thanh Hóa. Trong thời gian địa phương san lấp nền móng chùa cũ để trùng tu lại chùa Lục Nghĩa Trúc còn phát hiện được một số hiện vật như: chân tảng, đá lăn giai, chân cắm lọng, cột đá…Hiện tại, địa phương không dùng những di vật nói trên trong việc phục hồi ngôi chùa này.
Hiện nay, chùa được địa phương tôn tạo lại với không gian kiến trúc được bố trí như sau:
Sân chùa: trước sân chùa có ao rộng thoáng mát, sân chưa được lát gạch đang còn nền đất, chưa có công và tường rào bao quanh.
Nhà Tiền đường: qua bậc Tam cấp bằng đá xanh, rộng 0,32m, cao 0,16m, hiên rộng 0,74m, nền hiên lát đá xanh.
Từ hiên vào nhà Tiền đường qua hệ thống cửa được làm bằng gỗ theo kiểu bức bàn (gồm 3 chuồng cửa), mỗi chuồng cửa có 4 cánh, có bậc cửa, ngưỡng cửa được làm bằng gỗ, (nghạch đang để trống), nghạch có chiều cao 0,22m, dày 0,15m, cửa đóng bằng hệ thống chốt trên và dưới, cửa có chiều cao 1,8m, dày 0,15m, mỗi cánh có chiều rộng 0,62m, làm bằng gỗ lim. Phía trên các chuồng cửa được đặt các mắt cửa, phía trên của trang trí bức xuân hoa bằng hệ thống con tiện bằng gỗ.
Nhà Tiền đường có chiều dài 14,30m, chiều rộng 5,94m, nền lát gạch bát đỏ 30 x 30cm. Cấu trúc ngang thân nhà gồm: Dĩ đầu hồi phía đông rộng 0,65m, gian thứ nhất rộng 2,560m, gian thứ hai rộng 2,560m, gian thứ ba rộng 2,560m, gian thứ tư rộng 2,560m, gian thứ năm rộng 2,560m, dĩ phía đầu đốc Đông rộng 0,65m. Cấu trúc ngang thân nhà gồm 4 hàng cột, hai hàng cột trước, cột sau và hai hàng cột quân trước, sau và 8 cột góc.
Từ cột quân trước đến cột cái trước là 1,690m; từ cột cái trước đến cột cái sau là 2,560m; từ cột cái sau đến cột quân sau 1,690m, chiều cao cột cái: 4,05m, chiều cao cột quân: 3,22m, (đường kính cột cái: 0,39m; đường kính cột quân là 0,33m), kích thước chân tảng cột cái là 0,48m x 0,48m, kích thước chân tảng cột quân là 0,45 x 0,45m.
Như vậy, nhà Tiền đường có tổng số 26 cột: 12 cột quân, 12 cột cái, 2 cột chéo gόc ở gian 2 và gian 4, không có cột hiên đứng trên hệ thống chân tảng.
Kết cấu vì kèo:
Theo khảo sát thực tế, nhà Tiền đường gồm 5 gian, 2 dĩ 6 vì kèo gỗ, có kết cấu cân đối và đối xứng nhau, gồm gian đầu đối xứng với gian cuối; các gian đối xứng nhau qua gian giữa, các vì kèo liên kết với nhau theo kiểu giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng vì 5, vì 3 đối xứng vì 4. Tất cả các vì kèo đều giống nhau theo một kiểu cấu trúc như vừa nêu ở trên.
Nhìn vào một vì kèo: từ ngoài vào mái hiên đến cột quân, là hệ thống kẻ đỡ lá dong hoành tải hiên và tàu mái của kết cấu mái chạy hết chiều dài mái ngói tàu, mái ở đây có diềm đỡ.
Phần nối giữa cột quân với cột cái trong lòng nhà đến nóc thượng lương đều kết cấu kiểu con so chồng rường, đầu con rường thứ nhất ăn mộng vào đầu cột cái, đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu trụ đứng để nối hai trụ với nhau là con rường dài nằm ngang ăn mộng vào đầu trụ đứng đỡ cả mái còn gọi là rường bụng lợn. Trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỉ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái, được đỡ bằng những đấu trụ vuông, con rường cuối cùng là đấu guốc đỡ thượng lương.
Phần dưới xà lòng, xà nách được liên kết kiểu chồng rường; riêng vì 1, vì 6 từ cột quân ra cột góc có 4 góc kết cấu liên hoàn chặt chẽ, tạo nên mái cong. Tất cả các vì ở hai hàng cột cái trước, sau đều đặt các đầu dư ở mỗi vì; đầu dư này đặt dưới quá giang chui qua họng cột cái, phía trên xà thượng có tác dụng đỡ quá giang và được trang trí hình đầu rồng.
Toàn bộ hoành tải, rui mè, xà thượng, xà hạ, xà thể hoành đều làm bằng gỗ lim, vuông vắn, chắc khỏe, có khả năng chịu lực tốt; nền lát gạch bát đỏ 30x30cm, mái lợp ngói liệt ở dưới, trên là ngói mũi hài, bờ giải xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống phía dưới 1/3 bờ giải đắp bốn trụ ở bốn mái, trên đỉnh bốn trụ gắn bốn con kìm. Từ 1/3 bờ giải ở bốn mái chạy xuống mái hiên xây uốn lượn cong vuốt ở bốn đỉnh đầu đao gắn bốn con Kìm, bờ giải trát vữa hồ trang trí giật cấp đáy rộng để chận mái, đắp vuông trụ thành bờ guột. Bờ nóc ở giữa gắn hình bánh xe pháp luân.
Nhà Hậu cung (Phật điện):
Nhà Hậu cung nối liền với gian giữa của nhà Tiền đường và kết cấu theo chiều dọc gồm 3 gian 4 vì gỗ. Trên hai cột cái ở vì 1 chỉ còn lại 6 cột cái và 8 cột quân. Cột cái có chiều cao 4,05m, cột quân có chiều cao 3,22m; kích thước theo chiều dọc thân nhà, gian thứ nhất rộng 2,560m, gian thứ hai rộng 3m, gian thứ ba rộng 3m.
Kích thước ngang thân nhà từ tường hồi đầu đông đến cột quân là 0,39m; từ cột quân đến cột cái trước là 1,69m, từ cột cái trước đến cột cái sau là 1,69m, từ cột quân sau đến tường hậu phía đông là 0,390m.
Kết cấu vì kèo:
Nhà Hậu cung có ba gian, 4 vì kèo gỗ có kiến trúc cân đối và đối xứng nhau qua gian giữa; vì 1 đối xứng với vì 4, vì 2 đối xứng với vì 3; tất cả các vì kèo này có kết cấu giống như các vì kèo của nhà tiền đường.
Để đi thông ra phía sau, hai bên ở tường đốc Nhà hậu cung gần chỗ tiếp giáp với nhà Tiền đường và Hậu cung mở hai cửa: cửa rộng 1, 120m, cao 2,140m, có cánh cửa đóng mở dễ dàng, cánh cửa làm bằng gỗ, kiểu cửa bức bàn.
Bài trí đồ thờ:
Hiện tại, nhà Tiền đường xây 2 bệ thờ ở 2 gian hồi đầu phía Đông và Tây. Bàn thờ phía Đông đặt tượng Đức Ông, bàn thờ phía Tây đặt tượng Phật Bà nghìn tay nghìn mắt.
Phật điện: được trang trí bốn lớp. Tượng với bốn bệ tượng như sau: Bệ cao nhất là 2,2m; bệ thứ hai cao 1,8m; bệ thứ ba cao 1,4m; bệ thứ tư cao 1,0m.
Bài trí tượng pháp được bố trí như sau: Bệ trên cùng là tượng Tam thế: quá khứ, hiện tại, tương lai. Lớp tượng thứ hai gồm: Quan Thế Âm bồ tát, Di Đà, Đại Thế chí. Lớp tượng thứ ba gồm: Tượng Phổ Hiền, Thích ca và Tam Tôn. Lớp thứ tư gồm: Phật Bà nghìn tay nghìn mắt. Lớp thứ năm gồm: tượng Kim đồng, Ngọc Nữ (tượng tư thế đứng).
Giá trị nghệ thuật của các pho tượng: Tượng Tam thể, tượng trưng cho Phật ở ba thời: Quá khứ, Hiện tại, Tương lai (hay còn gọi là Vị lai).
Phật quá khứ như Đức phật Ca Diếp, Phật hiện tại như Đức Thích Ca Mâu Ni, Phật Vị lai như Đức phật Di Lặc. Cả ba pho tượng này được đặt trên bệ gỗ và đài sen, tóc kết hình xoắn ốc, gò má hơi cao, thùy tai to rũ dài, vành tai tròn, lòng bàn tay cong như búp măng non, các ngón tay thon thả. Tượng khoác áo cà sa để lộ ngực trần, áo không trang trí chỉ có số nếp gấp. Ba pho tượng này giống nhau ở tư thế tay, kết ấn tam muội, lòng bàn tay để ngửa lên lòng đùi.
Quan thế âm, Đại thế chí, di đà: Hai pho tượng được làm bằng gỗ ngồi trên đài sen, hai tay kết ấn liên hoa, tượng có khuôn mặt trái xoan, mắt khép hờ, mũi dọc dừa, tai đeo hoa.
Tượng Thế Tôn: Ngài là bậc độc tôn ở đời gọi là phật Niêm Hoa giơ tay mỉm cười bắt nguồn từ cách thuyết pháp của phật. Tượng đặt hai tay kết ấn tam muội ở trong lòng, có khuôn mặt thanh tú biểu hiện vẻ đẹp quý phái. Đầu tóc nở to so với khuôn mặt; khuôn mặt thực thánh thiện, tập trung những nét đẹp thuần khiết với nụ cười tế nhị, áo tượng để hở cả ngực.